Tôn chỉ, mục đích của báo chí: Từ nhận thức đến thực tiễn ở Việt Nam

Trung Kiên

16/04/2022 07:45

Báo chí cách mạng Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội, lực lượng nòng cốt, giữ vai trò quan trọng trên các mặt trận tư tương, chính trị, kinh tế, xã hội…, là cơ quan lý luận, định hướng xã hội và kênh thông tin quan trọng để thực hiện các quyền công dân; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân và ngược lại. Do đó, báo chí có vai trò vô cùng to lớn trong việc thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, cũng như công cuộc bảo vệ sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam được thiết thực.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn chỉ, mục đích của báo chí cách mạng Việt Nam

Xuất phát từ quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1], Người chỉ rõ tôn chỉ, mục đích của báo chí cách mạng Việt Nam đó là: “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hoà bình thế giới”[2]. Theo Người, tư tưởng và nội dung xuyên suốt của báo chí là khai thác, tiếp nhận và tuyên truyền: “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”[3]. Do đó, báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng, vì có đường lối chính trị đúng thì các nội dung và hình thức thể hiện của báo chí mới đúng và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc được.

Tại Đại hội lần thứ III những người viết báo Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng, cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén… (8/9/1962). (Ảnh: Tư liệu)

Từ quan điểm, nhận thức trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ vai trò, nhiệm vụ của báo chí cách mạng Việt Nam đó là: “nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo chí”[4], vì Người cho rằng người hoạt động báo chí là một chiến sĩ cách mạng. Đối với người làm báo cách mạng, theo Người, “cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”, do đó “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng”[5]. Người căn dặn:“Về trách nhiệm báo chí, Lênin có nói: Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung, người lãnh đạo chung. Vì vậy, nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hoá, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình. Cần phải luôn luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất định thành công”[6].

Người cho rằng, nhiệm vụ báo chí cách mạng là phải đi tiên phong trong đấu tranh không khoan nhượng với những gì đi ngược lại quy luật của lịch sử, vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp bợm của kẻ thù của dân tộc: “Đối với những người viết báo chúng ta, cái bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng để động viên quần chúng đoàn kết đấu tranh, chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và hòa bình thế giới”[7]. Tính chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ thù của cách mạng, mà còn biểu dương những tấm gương tiêu biểu trong chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng. Một mặt, Người yêu cầu “Các báo chí và văn nghệ phải điều tra tuyên truyền, khen ngợi những ưu điểm và phê bình những khuyết điểm trong việc phổ biến sáng kiến và kinh nghiệm. Đó là một nhiệm vụ vẻ vang của báo chí và văn nghệ thiết thực góp phần vào phong trào thi đua ái quốc”[8]. Mặt khác, Người đề nghị báo nên có mục “ý kiến bạn đọc”, coi ý kiến bạn đọc là những ý kiến đấu tranh. Cái mới đấu tranh với cái cũ, cái tốt đấu tranh với cái không tốt. Trong biểu dương, phải rút ra được kinh nghiệm có ý nghĩa phổ biến, phê bình phải cụ thể, rõ ràng. Phê bình và tự phê bình là biện pháp tăng cường tính chiến đấu, vì “Phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và rất sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm. Vì khéo lợi dụng nó mà Đảng ta và dân ta ngày càng tiến bộ. Đối với báo chí cũng vậy”[9].

Về tính Đảng của báo chí cách mạng Việt Nam: Đây là điều căn cốt nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng Việt Nam, là cơ sở để phân biệt báo chí cách mạng với báo chí phản cách mạng. Người cho rằng, báo chí chỉ đúng về chính trị khi nó được lãnh đạo của một đảng, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, một đảng mang bản chất của giai cấp công nhân và gắn bó mật thiết với dân tộc, với nhân dân. Người luôn nhấn mạnh: Báo chí phục vụ ai? Đằng sau lời chỉ dẫn của Người: báo chí của ta phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ cho đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho hoà bình thế giới là nguyên tắc: Đảng phải lãnh đạo báo chí. Ngay từ rất sớm Người khẳng định nguyên tắc bất di, bất dịch ấy: “Ban Chấp hành Trung ương phải kiểm soát các báo chí của Đảng để tránh những khuyết điểm về kỹ thuật và chính trị”[10]. Theo đó, Người yêu cầu “Báo chí ta không phải để cho một số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân, để tuyên truyền giải thích đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, cho nên phải có tính chất quần chúng và tinh thần chiến đấu”[11]. 

Để nâng cao tính Đảng, trong “Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng”, Người huấn thị: “Tờ báo của chúng ta có mấy điểm chính: 1) Nhiệm vụ của tờ báo là tuyên truyền, cổ động, huấn luyện, giáo dục, và tổ chức dân chúng, để đưa dân chúng đến mục đích chung. 2) Mục đích là kháng chiến và kiến quốc. Để đi đến kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, thì: 3) Tôn chỉ của tờ báo là đoàn kết toàn dân, thi đua ái quốc. Vì vậy: 4) Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng. Một tờ báo không được đại đa số dân chúng ham chuộng, thì không xứng đáng là một tờ báo. Muốn được dân chúng ham chuộng, coi tờ báo ấy là tờ báo của mình, thì: 5) Nội dung tức là các bài báo phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông, thiết thực, hoạt bát. Và: 6) Hình thức tức là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng sủa. Hiện nay, các báo ta thường có những khuyết điểm sau đây: Về mặt tuyên truyền thì không kịp thời và chính trị suông quá nhiều”[12].

Về xây dựng đội ngũ nhà báo vừa “hồng”, vừa “chuyên”: Từ tôn chỉ, mục đích hoạt động của nền báo chí cách mạng Việt Nam, từ vị trí và vai trò của nhà báo và hoạt động báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu những người làm báo phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động, phải luôn nâng cao trình độ văn hoá, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của mình; nhất là phải trau dồi lập trường chính trị vững chắc: “Chính vì thế cho nên, tất cả những người làm báo (người viết, người in, người sửa bài, người phát hành, v.v.) phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng được. Cho nên các báo chí của ta đều phải có đường lối chính trị đúng”[13]. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở những người làm báo, khi viết phải trả lời rõ: “Thế thì viết cái gì? Trong vấn đề này cũng phải có lập trường vững vàng: ta, bạn, thù thì viết mới đúng”[14]. Những câu hỏi Người đặt ra chính là đòi hỏi báo chí phải xác định rõ đối tượng tiếp nhận thông tin. Việc xác định đó nhằm hình thành phương pháp sáng tạo phù hợp cho nhà báo.

Người chỉ rõ: “đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng”[15]. Vì vậy, cách viết bài báo phải đơn giản, dễ hiểu, ngôn ngữ phải trong sáng, tránh dùng từ nước ngoài; viết “phục vụ nhân dân” thì nhất định phải chọn cái gì có lợi cho dân và phục vụ cách mạng. Vì vậy, Người nhắc nhở: “Bác biết các chú văn hay chữ tốt, nhưng dù sao, nhân dân trăm tai nghìn mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh có thể giúp cho các chú tiến bộ hơn. Không riêng gì viết sách viết báo, mà công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của nhân dân”[16].

Báo chí vì cách mạng, vì Đảng, vì nhân dân - đó vừa là mục đích, vừa là điều kiện, vừa là tiêu chuẩn đạo đức trong hoạt động báo chí; đó cũng là tính đảng của báo chí, là biểu hiện sự trung thành của báo chí đối với Đảng, là cống hiến của báo chí vào sự nghiệp vĩ đại của Đảng. Về phần mình, hướng dẫn để báo chí và đội ngũ các nhà báo thực hiện đắc lực cho cách mạng, phục vụ tốt nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân tức là Đảng đã làm tốt vai trò lãnh đạo báo chí.

Tóm lại, từ những nhận thức, quan điểm về dân chủ, nhân quyền, Hồ Chí Minh đã đưa ra một cách nhìn khoa học, tường minh nhất về nội dung, chủ thể trong hoạt động báo chí. Người chỉ rõ tôn chỉ, mục đích “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hoà bình thế giới”, xuất phát quan điểm này, cho thấy vai trò của báo chí là vô cùng to lớn trong việc truyền bá tư tưởng của Đảng, pháp luật Nhà nước đến với mọi tầng lớp nhân dân; báo chí là cầu nối giữa quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước với Nhân dân, là kênh thông tin quan trọng để nhân dân thực hiện quyền được biết, quyền được bàn, quyền được kiểm tra và quyền làm chủ của nhân dân. Mặt khác, báo chí phải phản ánh được hơi thở, sức sống của thời đại, chủ động tiếp cận, phản ánh, phân tích, bình luận về những vấn đề trong nước với quốc tế và ngược lại. Suy rộng ra, ở mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, báo chí có những tôn chỉ, mục đích khác nhau, trong giai đoạn hiện nay, báo chí vẫn phải thực hiện nhất quán tôn chỉ, mục đích xuyên suốt là: Phục vụ nhân dân lao động, bảo vệ quan điểm, đường lối của chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội chủ nghĩa, cổ vũ, đồng hành cùng toàn Đảng, toàn Dân xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc Việt Nam, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm tiến bộ, công bằng, văn minh và sự ổn định, hòa bình của nhân loại.

2/ Vai trò của báo chí trong việc tuân thủ pháp luật và thượng tôn pháp luật

Thứ nhất, từ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về báo chí nêu trên có thể thấy:

Một là: Báo chí là công cụ đấu tranh giai cấp, là vũ khí đấu tranh cách mạng; là phương tiện, kênh thông tin để Đảng và Nhà nước thực hiện tuyền thông nhà nước, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như đưa quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và cộng đồng quốc tế.

Hai là, Báo chí là công cụ bảo đảm thực hiện quyền công dân, quyền tự do ngôn luận theo pháp luật; là công cụ để người dân thảo luận, bày tỏ chính kiến của mình trước vận mệnh của đất nước, dân tộc; thông qua hoạt động của báo chí, cơ quan báo chí, nhà báo, nhân dân gián tiếp thực hiện quyền được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra.

Ba là, Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội về tổ chức, hoạt động của cơ quan Nhà nước nói chung, yêu cầu Nhà nước phải thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình đối với những nội dung phải công minh nhưng chưa công minh.

Bốn là, Báo chí là kênh thông tin quan trọng kết nối mọi mặt của đời sống xã hội trong nước với quốc tế, thực hiện chức năng kết nối thông tin, định hướng dư luận xã hội, đoàn kết xã hội.

Thứ hai, thượng tôn pháp luật về báo chí và hoạt động báo chí

Theo quy định của Luật Báo chí năm 2016, Nhà nước thực hiện thống nhất quản lý báo chí bằng pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. Đồng thời, cơ quan báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân[17].

Cơ quan chủ quản báo chí có quyền xác định loại hình báo chí, cũng như tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, ngôn ngữ thể hiện của từng loại hình, từng loại sản phẩm báo chí, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của cơ quan báo chí; chỉ đạo cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích và chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan báo chí.

Cơ quan báo chí, người đứng đầu cơ quan báo chí, nhà báo có quyền và nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật về hoạt động báo chí, hoạt động đúng theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và pháp luật có liên quan.

Tóm lại, báo chí có vai trò to lớn trong việc truyên thông Nhà nước, định hướng và dẫn dắt xã hội, là cầu nối giữa ý Đảng với lòng Dân. Là kênh thông tin chính thống để công bố công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động của Nhà nước, là công cụ để cung cấp thông tin cho Nhân dân, là diễn đàn để dân bàn, dân kiểm tra.

3/ Thực hiện pháp luật về báo chí

Theo quy định của Luật Báo chí hiện hành, cũng như các quy định của hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có một quan điểm, khái niệm cụ thể nào về tôn chỉ, mục đích, cũng như ý nghĩa, nội hàm của khái niệm này thế nào, nhưng theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn chỉ, mục đích của báo chí, mục tiêu xuyên suốt là phụng sự nhân dân lao động, phụng sự Đảng, tham gia xây dựng, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc, phát triển đất nước.

Vậy, pháp luật về báo chí trong việc phục vụ Nhân dân được quy định cụ thể:

Thứ nhất, tại Điều 25, Hiến pháp năm 2013 đã công nhận: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Như vậy, theo đó các quyền cơ bản đã được ghi nhận, thừa nhận theo những điều kiện xã hội nhất định, phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế hiện nay. Tính đến ngày 30/11/2019, cả nước có 850 cơ quan báo chí (trong đó có 179 cơ quan báo, 648 tạp chí, 23 cơ quan báo chí điện tử độc lập) và trên 41.000 người đang công tác tại các cơ quan báo chí (cả 4 loại hình), trong đó có 20.407 trường hợp đã được cấp thẻ nhà báo hoạt động theo pháp luật.

Trên tinh thần đó, quá trình nội luật hóa, Luật Báo chí 2016 đã quy định trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo phải thực hiện để phục vụ nhân dân, quyền công dân, cụ thể: “Đăng, phát kiến nghị, phê bình, tin, bài, ảnh và tác phẩm báo chí khác của công dân phù hợp với tôn chỉ, mục đích … trong trường hợp không đăng, phát phải trả lời và nêu rõ lý do khi có yêu cầu; Trả lời hoặc yêu cầu tổ chức, người có thẩm quyền trả lời bằng văn bản hoặc trả lời trên báo chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến”[18].

Để bảo đảm quyền tự do về bảo chí, quyền tiếp cận thông tin báo chí của công nhân, cơ quan báo chí có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời những thông tin phải công khai theo quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin; pháp lệnh dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn; và pháp luật có liên quan để phục vụ nhu cầu thông tin báo chí của nhân dân. Thông tin phải bảo đảm đầy đủ, chính xác, kịp thời[19].

Mặt khác, ở góc độ về phòng, chống tham nhũng: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tổ chức họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí định kỳ hoặc đột xuất về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, về công tác phòng, chống tham nhũng và xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng theo quy định của pháp luật về báo chí; Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải tổ chức họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí đột xuất đối với vụ việc có liên quan đến tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình mà dư luận xã hội quan tâm, trừ trường hợp pháp luật về báo chí có quy định khác”[20].

Thứ hai, ở góc độ báo chí là công cụ, kênh truyền thông Nhà nước

Thông qua các kênh thông tin đại chúng, tổ chức họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn trong cơ quan Nhà nước, đây là các hình thức chủ động thực hiện công bố, cung cấp thông tin về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước[21]. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi địa phương, người dân sẽ được cơ quan Nhà nước bảo đảm các hình thức tiếp cận thông tin một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời theo quy định của pháp luật. Mặt khác, cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm, nghĩa vụ thu thập thông tin theo quy định của pháp luật và đăng, phát kịp thời, chính xác, đầy đủ, khách quan rộng rãi đến xã hội và Nhân dân. Thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động báo chí phải bảo đảm không xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, cũng như không ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc gia.

Ngoài việc chủ động thực hiện công khai, minh bạch, các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện cung cấp cho cơ quan báo chí, nhà báo những thông tin, dữ liệu theo quy định của pháp luật[22]. Bằng hình thức họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, cơ quan hành chính các cấp đang thực hiện tốt việc công khai, minh bạch. Thông qua điều tra báo chí đã thúc đẩy công khai, minh bạch, đồng thời cũng đóng góp không nhỏ trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, kiểm soát quyền lực Nhà nước trong thời gian qua. Ngoài ra, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn năm 2007 cũng quy định cụ thể về đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện công khai, minh bạch để nhân dân được biết thông qua hình thức hệ thống truyền thanh. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong thực hiện giám sát cộng đồng, giám sát của Nhân dân đối với thu chi ngân sách địa phương, thực hiện các chính sách xã hội tại cộng đồng.

Mặt khác, theo quy định tại khoản 2, Điều 15 Luật phòng, chống tham nhũng 2018, trường hợp báo chí đăng tải thông tin về vi phạm pháp luật và yêu cầu trả lời các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao, các cơ quan Nhà nước có nghĩa vụ phải giải trình và công khai nội dung giải trình trên báo chí. Ngoài ra, Điều 39, Điều 40, Điều 41 Luật Báo chí 2016 quy định các cơ quan Nhà nước thực hiện trách nhiệm giải trình qua hình thức trả lời trên báo chí, trả lời phỏng vấn trên báo chí và tổ chức họp báo. Tuy nhiên, không phải yêu cầu nào của cơ quan báo chí cũng được các cơ quan Nhà nước giải trình. Việc quy định những nội dung không thuộc phạm vi giải trình sẽ giúp cho việc giải thích, cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước được chính xác, không gây phương hại đến an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh doanh và các cá nhân khác.

Như vậy, các cơ quan Nhà nước về cơ bản đã thực hiện tốt việc công khai, minh, bạch các chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đáp ứng được mong mỏi của người dân, qua đó, góp phần nâng cao vai trò giám sát và phản biện xã hội của báo chí, để báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa ý Đảng với lòng dân, đảm bảo cho phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được thực hiện trên thực tế.

Nhận diện những vấn đề khó khăn, thách thức của hoạt động báo chí

Luật Tiếp cận thông tin 2016 là luật gốc quy định về cung cấp thông tin, công khai thông tin của các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, Điều 4 Luật Tiếp cận thông tin 2016 về chủ thể thực hiện tiếp cận thông tin chỉ quy định chung chung là công dân có quyền thực hiện quyền tiếp cận thông tin, không nói rõ và cụ thể các cơ quan báo chí có được tiếp cận thông tin hay không. Điểm này gây khó khăn cho cơ quan báo chí tiếp cận thông tin từ các cơ quan Nhà nước.

Quy định về báo điện tử và tạp chí điện tử trong pháp luật báo chí chưa có sự phân biệt rõ ràng. Việc thiếu quy định, không rõ ràng sẽ gây ra sự lúng túng cho các cơ quan báo chí khi thực hiện hoạt động báo chí và các cơ quan Nhà nước trong công tác quản lý báo chí. Luật Báo chí 2016 hiện nay vẫn chưa có quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên báo chí, trong khi đó số lượng cộng tác viên hiện nay rất nhiều. Việc không quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cộng tác viên báo chí gây khó khăn cho các cơ quan báo chí trong việc quản lý cộng tác viên. Trên thực tế, nhiều cộng tác viên đã gây ra sai phạm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp báo chí.

Mặt khác, một trong những vấn đề rất quan trọng là thực hiện đúng tôn chí, mục đích, đây là vấn đề mà làm cho các cơ quan báo chí, nhà báo hoạt động thiếu tính hiệu quả, và xét trên góc độ quản lý Nhà nước là vi phạm pháp luật về báo chí, bên cạnh đó việc quy định không rõ ràng, năng lực quản lý về báo chí của Nhà nước còn lỏng lẻo, ở một số địa phương còn có hiện tượng coi thường cơ quan báo chí, nhà báo và có hiện tượng thao túng quyền lực báo chí, lợi dụng quan hệ để trục lợi trong các lĩnh vực, vấn đề nóng của xã hội như đầu tư công, đầu tư phát triển dự án nhà ở, bất động sản, xây dựng, môi trường ... Ở một khía cạnh khác, quy định các nội dung thông tin về bí mật Nhà nước chưa được cụ thể và rõ ràng, do đó dẫn đến tình trạng các cơ quan Nhà nước lợi dụng việc đóng dấu mật để không cung cấp thông tin, cản trở hoạt động nghiệp vụ báo chí của cơ quan báo chí.

Hiện nay, đầu mối cung cấp thông tin cho các cơ quan báo chí, nhà báo chưa cụ thể khiến các cơ quan báo chí, các nhà báo gặp khó khăn trong việc thực hiện quyền yêu cầu cung cấp thông tin. Rất ít cơ quan công khai đầy đủ các thông tin về điện thoại, email, họ tên đầy đủ của cán bộ, công chức làm đầu mối. Bên cạnh đó các cơ quan Nhà nước hiện nay vẫn chưa xây dựng được đầy đủ cơ sở dữ liệu về thông tin theo chuyên đề, theo ngành, lĩnh vực quản lý Nhà nước. Điều này gây khó khăn cho việc tiếp cận thông tin của các cơ quan báo chí.

Nhiều cơ quan Nhà nước dựa vào quy định về người phát ngôn để trì hoãn việc công khai, minh bạch và giải trình cho cơ quan báo chí bởi phải xin ý kiến, chủ trương trước khi cung cấp thông tin, nên thông tin thường xuyên bị cung cấp trễ hoặc không được cung cấp. Quy định về người phát ngôn vốn nhằm thúc đẩy trách nghiệm giải trình và công khai, minh bạch lại vô hình chung biến thành rào cản để từ chối cung cấp thông tin. Hiện nay, có rất nhiều cơ quan báo chí, nhà báo phản ánh thực trạng một số cơ quan, đơn vị tìm cách né tránh, không cung cấp thông tin cho báo chí.

Bên cạnh những vấn đề tồn tại, bất cập trong quản lý Nhà nước về báo chí, một tong vấn đề cơ bản nữa dẫn đến chất lượng sản phẩm báo chí hiện nay chưa cao là do các cơ sở đào tạo về báo chí còn yếu về học liệu, về cơ sở vật chất, chưa chủ động mời được các chuyên gia trong nước và quốc tế về báo chí tham gia giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm ... mặt khác, do các điều kiện xã hội nhất định mà một bộ phận lớn sinh viên, học viên lười học tập, nghiên cứu, nhưng lại thích kiếm tiền và hưởng thụ ngay trên ghế giảng đường bằng những nghề ít liên quan đến chuyên môn, chuyên ngành. Ngoài ra, trong thời gian qua, vẫn còn nhiều cơ quan báo chí đăng tải những thông tin không đúng sự thật về liên quan đến các hoạt động quản lý của Nhà nước và gây ra những hậu quả nghiệm trọng. Đó là do trình độ chuyên môn nghiệp vụ báo chí còn hạn chế, không kiểm duyệt và xác minh rõ sự thật, nguồn gốc của thông tin, mặc khác, còn do nhận thức, đạo đức nghề nghiệp của một số người làm báo không tốt nên dẫn đến tình trạng thông tin sai sự thật.

Tóm lại, xuất phát từ tôn chỉ, mục đích, cũng như năng lực nhận thức pháp luật về tự do báo chí, tự do ngôn luận của cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan báo chí, nhà báo và công tác quản lý đào tạo báo chí đã dẫn đến một hệ lụy như hiện nay, sản phẩm báo chí có chất lượng thì ít, nhưng la lá sản phẩm báo chí, dân làm báo thì nhiều dẫn đến nhiễu loạn thông tin, gây ra những nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn về hoạt động báo chí, hoang mang trong xã hội, thiếu tính kết nối, định hướng tích cực của các sản phẩm báo chí. Từ những vấn đề này, cần xem xét việc quản lý báo chí theo tôn chỉ có cần thiết không? nếu quản thì có làm hạn chế quyền tiếp cận thông tin báo chí của công dân, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân theo pháp luật hay không? có làm giảm các kênh thông tin đại chúng được hoạt động theo pháp luật hay không? hay Nhà nước thực hiện quản lý báo chí bằng pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, giáo dục tinh thần thượng tôn pháp luật và có cơ chế chặt chẽ để quản lý, xử phạt nghiêm minh những kẻ cơ hội, lợi dụng báo chí để tư lợi, để vun vén cá nhân, để gây rối chật tự an toàn xã hội, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm người khác và làm phương hại đến an ninh quốc gia...

4/ Kết luận và kiến nghị

Để hướng đến một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa rất cần sự nỗ lực thực hiện của toàn Đảng, toàn Dân và toàn xã hội, nhất là sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động báo chí, tư tưởng. Phát huy vai trò chủ lực của các cơ quan báo chí trong thực hiện truyền thông Đảng, Nhà nước, bảo đảm quyền công dân, quyền con người, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, cần quan tâm đến một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện thống nhất nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối về công tác tư tưởng, báo chí và hoạt động báo chí, bảo đảm tính thống nhất giữa tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa với thực hiện quyền công dân, quyền con người về tư tưởng, báo chí và ngôn luận theo pháp luật. Báo chí phải đồng hành, cổ vũ và huy động các nguồn lực trong toàn xã hội tham gia thực hiện thắng lợi quan điểm, mục tiêu của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Thực hiện quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tôn chỉ, mục đích tong hoạt động của báo chí: “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hoà bình thế giới”, nhưng phải bảo đảm phù hợp với bối cảnh hiện nay, hoạt động báo chí là để phục vụ lợi ích của nhân dân lao dộng, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công dân theo pháp luật; phải bảo đảm tính kết nối thông tin trên các mặt của đời sống xã hội trong nước, quốc tế được liên tục, kịp thời và chính xác. Phân tích, dự báo và định hướng xã hội một cách khách quan, khoa học và qua đó kết nối xã hội, đoàn kết dân tộc trong nước và quốc tế, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội trong nước, góp phần ổn định hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc.

Thứ hai, Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí trên cơ sở Hiến pháp 2013, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và pháp chế xã hội chủ nghĩa về hoạt động báo chí. Việc cấp phép và quản lý báo chí theo nguyên pháp pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân, tổ chức có quyền làm những gì nhà nước không cấm, không đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc. Báo chí phải hoạt động theo pháp luật và tuân thủ pháp luật, phát huy vai trò của báo chí để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin báo chí, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận theo pháp luật, đồng thời là kênh thông tin chính thống của Đảng và Nhà nước thực hiện truyền thông pháp luật, công bố công khai, minh bạch thông tin trong hoạt động của cơ quan, tổ chức Nhà nước tho quy định của pháp luật.

Thứ ba, phát huy dân chủ của xã hội, công dân theo Hiến pháp và pháp luật xã hội xã hội chủ nghĩa thông qua các hoạt động của truyền thông Nhà nước, bảo đảm đầy đủ về nhận thức xã hội, cơ sở hạ tầng cơ sở dữ liệu quốc gia về thông tin trên các lĩnh vực, các mặt của đời sống xã hội để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Phải phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong việc tham gia quản lý Nhà nước nói chung và quản lý hoạt động báo chí nói riêng, thực tiễn cũng từ Nhân dân và pháp luật cũng từ Nhân dân mà ra.

Thứ tư, khắc phục tình trạng yếu kém trong hoạt động báo chí bằng các giải pháp tổng thể, từ nhận thức của Nhà nước về pháp chế xã hội chủ nghĩa, của xã hội về vai trò của báo chí, đến việc từng bước đào tạo, đào tạo lại cán bộ quản lý báo chí, lãnh đạo cơ quan quản lý báo chí, nhà báo bảo đảm tính chuyên nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. Để các cơ quan báo chí, nhà báo sống được bằng nghề, tôn trọng pháp luật, hoạt động theo pháp luật, trước hết phải tạo ra một môi trường hoạt động lành mạnh, công khai, không có vùng cấm, vùng nhạy cảm, không vì tôn chỉ, mục đích, mà phải vì một nền dân chủ, văn minh, một xã hội công bằng; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân thì báo chí phải là một trong những công cụ thiết yếu để dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Tóm lại, hoạt động báo chí đòi hỏi tính chuyên môn, chuyên nghiệp cao, sản phẩm của báo chí có tác động to lớn đến nhận thức, tư tưởng của toàn xã hội, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, việc quản lý Nhà nước về báo chí là rất cần thiết, nhằm định hướng thông tin bảo đảm đúng mục tiêu, đúng vấn đề, bảo đảm phù hợp với pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền công dân, quyền con người và xu thế của thế giới hiện nay là rất khó khăn. Để làm tốt công tác quản lý Nhà nước về báo chí và hoạt động báo chí, Nhà nước cần phải hoàn thiện pháp luật về báo chí trên quan điểm chủ nghĩa Mac – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xã hội xã hội chủ nghĩa, về báo chí, về pháp chế xã hội chủ nghĩa và những nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; Nhà nước là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, nên Nhân dân phải được biết tiền thuế của mình đang được sử dụng như thế nào, đến đâu, có hiệu quả hay không ... tất cả những vấn đề đó phải được truyền thông, công khai, minh bạch trên hệ thống thông tin đại chúng quốc gia, mà đại diện là các cơ quan báo chí được cấp phép theo pháp luât.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr.187

[2, 3, 4, 6] Sđd, tập 12, tr.166; tr.171; tr.166;  tr.166

[5]Sđd, tập 13, tr.466

[7] Sđd, tập 14, tr.540

[8] Sđd, tập 7, tr.405

[9] Sđd, tập 13, tr.464

[10] Sđd, tập 3, tr.168

[11] Sđd, tập 12, tr.166 

[12, 15] Sđd, tập 6, tr.102

[13] Sđd, tập 12, tr.166

[14] Sđd, tập 8, tr.205

[16] Sđd, tập 15, tr.667-668

[17] Điều 13, Luật Báo chí số 103/2016/QH13 ngày 05/04/2016

[18] Điều 12. Luật Báo chí số 103/2016/QH13 ngày 05/04/2016

[19] Điều 20, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016

[20] Điều 13, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018

[21] Điểm c, khoản 1, Điều 11 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018; Điểm b, khoản 1, Điều 18, Điều 20 Luật Tiếp cận thông tin 2016; Điều 38, Điều 41 Luật Báo chí 2016;

[22] Điểm c, khoản 2, Điều 25 Luật Báo chí 2016; Điều 14 Luật Phòng, chống tham nhũng 2018;

(Tạp chí Tri thức Xanh - Số 66-21 )

Trung Kiên