Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam

Mai Phương

29/08/2023 14:34

Nhận thức được vai trò quan trọng của các chính sách Nhà nước trong việc tăng cường khả năng phát triển, năng lực cạnh tranh và việc ứng dụng khoa học – công nghệ vào nông nghiệp, vào ngày 29/8, Viện Nghiên cứu Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh (BCSI) phối hợp với Vụ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Vụ NN&PTNT), Ban Kinh tế Trung ương đã tổ chức buổi Toạ đàm “ Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam” tại Hà Nội.

toan-canh-toa-dam-pld-1693289631.JPG

Toạ đàm “ Tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam” được tổ chức tại Hà Nội.

Thực trạng kinh tế nông nghiệp tại Việt Nam 

Trong những tháng đầu năm 2023, sản xuất nông nghiệp đã đạt được kết quả khả quan. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I năm 2023 ước tính tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng giảm so với cùng kỳ thì khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,52%, đóng góp 8,85% vào mức tăng trưởng chung – đóng góp lớn nhất trong ba khu vực kinh tế.

Tuy nhiên nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Nước ta là một quốc gia có lợi thế về nông nghiệp, nhưng chủ thể sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu là các hộ gia đình, điều này khiến cho sự phát triển của ngành nông nghiệp thiếu tính đột phá, sự phát triển của các doanh nghiệp nông nghiệp trong giai đoạn vừa qua còn khá khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế phát triển.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (từ năm 2017-2022), tính đến hết ngày 31/12/2022, cả nước có 12.094 doanh nghiệp nông nghiệp trong tổng số 89.5876 doanh nghiệp cả nước đang hoạt động, chỉ chiếm gần 1,35% tổng số doanh nghiệp trên cả nước. Quy mô đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu ở mức nhỏ và siêu nhỏ, chiếm đến 90%, doanh nghiệp có quy mô vừa chỉ chiếm 4,0% và tiếp đến là doanh nghiệp có quy mô lớn chiếm chưa đầy 6%.

ts-vu-manh-hung-pld-1693289631.JPG

TS. Vũ Mạnh Hùng - Vụ trưởng Vụ NN&PTNT, Ban Kinh tế Trung ương đưa ra một số nhìn nhận về nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay.

Theo TS. Vũ Mạnh Hùng - Vụ trưởng Vụ NN&PTNT, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng: “Sự phát triển khiêm tốn này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chính là chưa có chính sách thực sự đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp nông nghiệp. Hiện nay, chính sách phát triển doanh nghiệp nông nghiệp chủ yếu tập trung vào hỗ trợ, ưu đãi đối với doanh nghiệp nông nghiệp như: hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; hỗ trợ giao đất, cho thuê đất; ưu đãi tín dụng; hỗ trợ vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ về chế biến sản phẩm; khuyến khích, thu hút đầu tư tư nhân; hỗ trợ chuyển giao công nghệ mới. 

Lĩnh vực hỗ trợ của chính sách như vậy được xem là khá toàn diện, tuy nhiên tính đồng bộ của chính sách, mức độ hỗ trợ của chính sách chưa tốt; đôi khi khâu tổ chức triển khai còn chậm, nguồn lực bố trí cho triển khai chính sách khá khó khăn nên các chính sách có mức hỗ trợ thấp lại tổ chức thực hiện một cách nửa vời nên hiệu quả, mức độ tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp chưa lớn.”

Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam

Nhìn chung, hoạt động của doanh nghiệp nông nghiệp Việt Nam còn hạn chế, doanh thu của các doanh nghiệp nông nghiệp chỉ bằng 0,62% tổng doanh thu của hệ thống doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp yếu kém, thể hiện ở các mặt như: các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp chậm cập nhật công nghệ sản xuất, chưa chuyên nghiệp quản lý sản xuất và thiếu đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; thị trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế và chưa được mở rộng; sản phẩm còn thiếu đa dạng, chất lượng sản phẩm còn hạn chế…

Tham luận tại toạ đàm, TS. Trần Thị Hồng Minh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đánh giá: “Những hạn chế về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nông nghiệp trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân trực tiếp đến từ các chính sách hỗ trợ, khuyến khích, thu hút đầu tư của Nhà nước. Do đó, để thúc đẩy sự phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào ngành nông nghiệp cần tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.” 

ts-tran-thi-hong-minh-pld-1693289631.JPG

TS. Trần Thị Hồng Minh – Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương tham luận tại chương trình.

Trong đó, cần tăng cường các chính sách về hỗ trợ tiếp cận nguồn vốn; tổ chức thực thi các chính sách hỗ trợ về tạo quỹ đất, quy hoạch các vùng đất sản xuất nông nghiệp, vùng nguyên liệu; xây dựng hệ thống hỗ trợ và khuyến khích doanh nghiệp khởi nghiệp trong nông nghiệp; tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ công tác pháp lý cho doanh nghiệp; thực hiện các chính sách hỗ trợ thúc đẩy chuyển đổi số cho các doanh nghiệp nông nghiệp…

Đưa logistics trở thành đòn bẩy cho nông sản hàng hoá

Logistics trong nông nghiệp là một chuỗi các hoạt động: thu hoạch, sơ chế, bảo quản, đóng gói, kho bãi, làm thủ tục hải quan, vận chuyển hàng hoá… với mục đích chuyển sản phẩm nông nghiệp từ Nhà nông (vùng nguyên liệu) – nhà cung cấp đến người tiêu dùng một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất. Đối với ngành nông nghiệp, logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng và được xác định là lực đẩy để nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Việt.

Tuy nhiên, hiện trạng logistics nông sản tại Việt Nam hiện nay đang gặp nhiều khó khăn về hạ tầng, chính sách, đặc biệt là vấn đề thiếu chuỗi cung ứng nông sản để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Về lĩnh vực này, Ths. Nguyễn Thắng Lợi – Trưởng Ban nghiên cứu Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam đề xuất một số giải pháp nhằm đưa logistics trở thành đòn bẩy cho nông sản Việt như sau:

ths-nguyen-thang-loi-pld-1693289631.JPG

Ths. Nguyễn Thắng Lợi – Trưởng Ban nghiên cứu Viện Nghiên cứu và phát triển logistics Việt Nam đề xuất một số giải pháp cho logistics nông sản Việt Nam.

Đối với cơ quan quản lý, cần chú trọng quy hoạch mạng lưới hạ tầng logistics và đầu tư hạ tầng cho hạ tầng vận tải kết nối đầu nguồn thu hoạch – hạ tầng trung tâm logistics phục vụ hàng nông sản; tăng cường kết nối hạ tầng logistics nhằm thúc đẩy liên kết vùng để sử dụng nguồn lực toàn vùng hiệu quả; có chiến lược phát triển nguồn nhân lực cho ngành dịch vụ logistics, đặc biệt cold chain logistics (hệ thống chuỗi lạnh).

Đối với các đơn vị kinh doanh nông sản, cần tăng tường tính chuyên môn hoá, giảm tỉ lệ hao hụt, tổn thất qua việc sử dụng phần lớn các dịch vụ thuê ngoài logistics; tích cực hoạt động trong các Hiệp Hội doanh nghiệp để tăng tính kết nối; tăng cường tính liên kết mạng lưới chủ hàng trong sử dụng dịch vụ logistics để tận dụng lợi thế nhờ quy mô. Đối với đơn vị cung cấp dịch vụ logistics, cần liên kết các đơn vị để tạo chuỗi dịch vụ logistics tích hợp đối với hàng nông sản xuất khẩu giúp khách hàng giảm chi phí, thời gian; liên kết ngang với doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nhằm phát triển mạng lưới.

Hội nhập kinh tế quốc tế đã giúp ngành nông nghiệp Việt Nam tham gia thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu. Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu, nằm trong nhóm 15 quốc gia xuất khẩu nông sản lớn nhất thế giới và đứng thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á. Nông sản Việt Nam có lợi thế hơn trong thương mại, nhiều cơ hội lựa chọn thị trường và đối tác, giảm mức độ phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Thị trường xuất khẩu nông sản ngày càng đa dạng hóa với nhiều thị trường lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia…. Sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học công nghệ trong bối cảnh hội nhập với việc ứng dụng nền tảng số trong thời gian tới sẽ đem lại nhiều cơ hội cho chuyển đổi chuỗi giá trị nông sản Việt Nam.

Mai Phương